Những khái niệm đã có từ lâu nhưng vẫn đầy hữu ích cho ngành BME Việt Nam non trẻ. Những thuật ngữ không đơn thuần là tên gọi mà như một định hướng ngành nghề cho tương lai.
Kỹ thuật y sinh – BioMedical engineering được định nghĩa như là ứng dụng của những ngành kỹ thuật, toán học và vật lý học vào các vấn đề trong sinh học và y khoa. Các vấn đề như vậy thường nằm trong việc (1) Mô hình hóa Sinh lý học thông thường và bất thường của cơ thể người (2) Nghiên cứu và thiết kế máy móc, thiết bị cho công tác chẩn đoán và điều trị y khoa. Vì vậy mà ngành này còn có tên gọi là kỹ thuật y khoa (medical engineering).
Kỹ thuật lâm sàng (Clinical engineering) có thể được dùng để chỉ các công việc được thực hiện ở bệnh viện hay các đơn vị lâm sàng khác.
Kỹ thuật y sinh hay kỹ thuật y khoa có nội dung mật thiết với vật lý y học (medical physics). Có người còn cho rằng vật lý y học là một phần của kỹ thuật y sinh. Trong quá khứ, các nhà vật lý y học chỉ chú tâm vào vật lý bức xạ, đặc biệt là xạ trị. Giờ đây vật lý y học bao gồm cả lĩnh vực chẩn đoán lẫn điều trị. Khác biệt thật sự chỉ nằm ở chỗ: nhà vật lý y học thường mang tấm bằng vật lý hơn là mang bằng kỹ sư.
Lý sinh (Biophysics) và kỹ thuật sinh học (bioengineering) là những thuật ngữ rộng hơn, bao hàm hầu hết các tương tác giữa vật lý hay kỹ thuật với sinh học hoặc y khoa. Ví dụ, một chuyên viên lý sinh có thể nghiên cứu các đặc tính hóa lý cơ bản của màng sinh học. Một kỹ sư hóa sinh sử dụng các tế bào hay cơ phận để tạo ra hóa chất. Một nhà công nghệ sinh học (“kỹ sư gen – genetic engineer”) có thể chế tác ra cơ phận mới bằng cách vận dụng các kỹ thuật tổ hợp DNA.
Kỹ sư y sinh là một kỹ sư ở mức độ chuyên nghiệp và không thể lẫn lộn với kỹ thuật viên hay một nhà công nghệ - những người vận hành và bảo trì thiết bị mà không cần quan tâm đến thiết kế hay nghiên cứu gốc. Thay vào đó, một kỹ sư y sinh phải biết vận hành thiết bị như thế nào, đồng thời còn phải lưu tâm đến các vấn đề có liên quan khác, ví như, sự an toàn của môi trường làm việc. Khái niệm về một kỹ sư chuyên nghiệp trong lĩnh vực này dường như không quen thuộc với các bác sĩ, và vì vậy mà kỹ sư y sinh thỉnh thoảng lại được (“bị”) gọi là nhà vật lý y học. Dù trong trường hợp nào, thì điều quan trọng cũng là các chuyên gia này phải biết phát triển một mối quan hệ công việc tốt với các bác sĩ và phẫu thuật viên khi thực hiện những hoạt động y khoa, bởi vì không một kỹ sư, nhà vật lý học nào được đào tạo hay cấp bằng cho việc chẩn đoán hoặc điều trị bệnh nhân.
Một kỹ sư y sinh giỏi cần phải hiểu biết đôi điều về sinh học và y khoa, và biết càng nhiều càng tốt. Anh ấy hoặc chị ấy đồng thời cũng phải được đào tạo bài bản theo các chương trình kỹ thuật (hay vật lý). Các chương trình có thể là kỹ thuật y sinh, kỹ thuật điện, kỹ thuật hoá học, khoa học hay kỹ thuật máy tính, khoa học hay kỹ thuật vật liệu, kỹ thuật cơ khí, hoặc kỹ thuật hạt nhân. Các bộ môn kỹ thuật y sinh thường chú trọng vào một hay nhiều lĩnh vực khác nhau, dựa vào mức độ quan tâm của hội đồng giảng viên nhưng lúc nào họ cũng cố gắng theo hướng đào tạo rộng nhất. Kỹ thuật điện thông thường sẽ phục vụ mảng cảm biến điện tử theo dõi thông số sinh lý, phân tích tín hiệu điện tim ECG, điện não EEG, và một số ứng dụng khác. Kỹ thuật hoá học có thể bao quát nội dung điều khiển và cảm biến hoá học, máy thẫm tách thận và các vấn đề liên quan. Khoa học máy tính thường được ứng dụng vào quá trình xử lý ảnh số và các ứng dung khác của máy tính vào y học. Kỹ thuât vật liệu có thể chuyên về vật liệu sinh học thích ứng với các mô. Kỹ thuật cơ khí có thể đảm đương việc mô hình hoá dòng chảy của máu, thiết kế các cơ phận nhân tạo, vân vân.. Kỹ thuật hạt nhân liên quan đến vật lý bức xạ (xạ trị liệu, X-quang chẩn đoán, và y học hạt nhân)
Các cơ hội nghề nghiệp đến từ các viện y học, công ty về trang thiết bị y tế và dịch vụ liên quan, các đại học, và các viện nghiên cứu của chính phủ cũng như tư nhân. Liên tục những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực công nghệ y khoa báo hiệu những bước đột phá trong tương lai, đồng thời cũng mở ra nhu cầu rất lớn về các kỹ sư y sinh.
Tài liệu tham khảo:
A.EDWARD PROFIO, Ph.D. Biomedical Engineering (Scope of Biomedical Engineering). John Wiley & Sons, Inc. (1993)
|